Chuyển đến nội dung chính

Chương 040. Bức hoạ biết nói

 C40. Bức hoạ biết nói

Yên Ngôn dừng lại một chút trước khi tiếp lời: “Hôm qua ta có sai Xuân Nhi đến phòng sách Khuê Văn để lấy mực, không may chỗ này đã điều hết số mực đang có đem đến điện Thiên Khánh, vậy nên Xuân Nhi đành phải đến phòng tranh Thuỷ Vân lấy tạm. Nghe Xuân Nhi kể lại, toàn bộ những bức tranh của họ Liễu kia đã được Quan gia sai người cất trữ tại đây. Vậy nên đã có những lời đồn ma mị xung quanh những bức tranh này, nhất là bộ Mai Trúc Cúc Lan!”

 

Nguyên Ninh có chút tò mò: “Lời đồn ma mị ư?”

 

Yên Ngôn liền đáp: “Đúng vậy! Bức Trúc trong bộ tranh này vốn dĩ đã bị xé đi một góc, gần đây lá của nó lại chuyển sang màu nâu. Đám cung nữ ở đó đồn thổi rằng, âm hồn của họ Liễu đã trở về để vẽ thêm những nét nguệch ngoạc này!”

 

Nguyên Ninh nhẹ giọng nói: “Trước khi chết, Đan Thanh đã xé bức tranh này để minh oan cho em, đồng thời tố cáo chuyện Hồng Yên đầu độc mình. Nếu âm hồn của cô ta hiện về, chắc chắn cũng là để đòi mạng những kẻ đã hãm hại cô ta!”

 

Nãy giờ Thanh Y vẫn im lặng lắng nghe, đến lúc này mới lặng lẽ cất tiếng: “Theo như ta suy đoán, chuyện này không phải là chuyện quỷ thần gì, mà là một manh mối quan trọng do Liễu Phu nhân để lại.”

 

Trông thấy nét mặt ngạc nhiên của Nguyên Ninh và Yên Ngôn, Thanh Y liền gấp gáp nói: “Trong lúc may vá, nếu chúng ta vô ý bị kim đâm trúng, máu bị dính trên vải sẽ có màu đỏ, nhưng nhiều ngày sau đó sẽ biến thành màu nâu. Những nét vẽ trên bức tranh đó sợ rằng cũng giống như thế. Khi đó Liễu Phu nhân bị trúng độc đảm phàn, chất độc này vốn có màu lam, nuốt vào bụng sẽ trở thành màu xanh lục, cùng với máu bị nôn ra ngoài. Có thể trong lúc hấp hối, Liễu Phu nhân đã dùng nó để lưu lại manh mối lên bức tranh. Bởi vì màu lục của nó trùng màu với lá trúc, cho nên bấy giờ không có ai nhận ra. Đợi đến khi máu đã chuyển sang màu nâu, mấy cung nữ ở phòng tranh mới phát hiện ra điều bất thường!”

 

Trưa hôm đó Yên Ngôn đã thay Nguyên Ninh đến phòng tranh Thuỷ Vân, nhưng bộ tranh này đã bị đem đi đốt từ lâu, cốt để những lời ma mị ở đó sẽ không bị tiếp tục thổi phồng. Cả Nguyên Ninh và Thanh Y đều cảm thấy thất vọng khi nghe được chuyện này. Giữa lúc mọi người đang đi vào ngõ cụt, chỉ nghe Thanh Y nhẹ giọng hỏi: “Bộ tranh này có đến bốn bức, tại sao Liễu Phu nhân lại chọn đúng bức tranh này để lưu lại manh mối?”

 

Nguyên Ninh gật đầu đáp: “Chị nói đúng! Khi đó nếu xét về khoảng cách thì Liễu Phu nhân nằm gần bức Mai nhất. Vậy mà trong lúc hấp hối, nàng ta lại cố gắng với tay đến bức Trúc để xé nó. Chuyện này chắc chắn còn có ẩn ý!”

 

Yên Ngôn trầm tư suy nghĩ, chỉ thấy điểm liên quan duy nhất chính là Đan Thanh đã từng sống ở viện Thuý Trúc. Nhưng chuyện này thì có ý nghĩa gì cơ chứ? Bất giác nàng liên tưởng đến hình ảnh những nhánh trúc đung đưa trong mùa hạ, cảnh tượng này khiến mi mắt của Yên Ngôn chợt dựng lên: “Thật ra bức tranh mà cô ta muốn để lại manh mối là bức tranh cuối cùng mới phải!”

 

Nguyên Ninh và Thanh Y đồng loạt ngạc nhiên: “Ý của chị là Lan?”

 

Yên Ngôn gật đầu: “Có điều bức tranh này nằm quá xa, cho nên cô ta mới để lại manh mối trên bức Trúc. Kẻ mà cô ta muốn ám thị là hung thủ đứng đằng sau mọi chuyện, không ai khác mà chính là người họ Hạ ở viện Ngọc Lan!”

 

Nguyên Ninh suy nghĩ đôi lát rồi gật gù đáp: “Chị nói không sai! Mai Trúc Cúc Lan đại diện cho bốn mùa xuân hạ thu đông. Bởi vì không thể chạm tới bức tranh cuối cùng để ám chỉ viện Ngọc Lan, Đan Thanh đã xé bức tranh mùa hạ. Chữ “hạ” này chẳng phải là để tố cáo Hạ Lệ Uyển hay sao?”

 

Chỉ nghe Thanh Y thở dài nói: “Tiếc rằng manh mối cuối cùng của Liễu Phu nhân đã bị người khác tiêu huỷ. Tuy chúng ta biết được kẻ chủ mưu đằng sau, nhưng mà vẫn không thể đem chuyện này nói lại cho Quan gia biết!”

 

Yên Ngôn gật đầu đáp: “Ít nhất thì chúng ta đã biết rõ kẻ địch của mình là ai. Chúng ta ở ngoài sáng, sợ nhất là kẻ địch trong tối. Nếu bọn chúng đã xuất đầu lộ diện, chúng ta sẽ dễ dàng đối phó hơn!”

 

***

 

Cẩn thận tính toán, cái thai trong bụng của Huyền Dao và Lệ Uyển cũng đã được bảy tháng. Lúc này Tiêu Thoa đang bưng một chén huyết yến đến chỗ của Huyền Dao, định rằng sẽ hầu hạ nàng dùng qua, chỉ thấy đôi mày của Huyền Dao khẽ chau: “Huyết yến này là loại thượng phẩm, mấy ngày qua dùng nhiều như thế, xem bộ bổn cung đã quá xa xỉ!”

 

Tiêu Thoa cười trừ: “Điện hạ đứng đầu chúng thiếp, dùng qua mấy món ăn có gì là xa xỉ. Huống hồ gì lúc này người đang mang thai, chỉ cần có thể sinh hạ ra được quý tử, thì bản thân sẽ có tất cả…”

 

Huyền Dao thở dài: “Chính vì bổn cung đang mang thai, cho nên đã phải chi tiêu không ít, vậy thì hạ nhân bên dưới mới dốc lòng tận tuỵ. Bổn cung đã từng mất đi đứa con trong bụng của mình, thực sự không muốn trải qua cảm giác đó thêm một lần nào nữa. Có điều hiện giờ viện thượng khố lại đang nằm trong quyền quản lý của Quý phi. Bổn cung có muốn chi tiêu nhiều hơn, bản thân cũng cảm thấy có chút bất tiện! Cũng may gần đây cha đã hay tin, sai Công Xước mang một số tiền lớn đến cung Nghênh Xuân, chúng ta cũng đỡ chật vật hơn một chút!”

 

Tiêu Thoa cúi đầu đáp: “Đại hành khiển Trần đại nhân và Chi hậu cục thủ trước giờ luôn quan tâm điện hạ!”

 

Huyền Dao chậm rãi gật đầu, liếc nhìn vài quả trứng đang đặt trên bàn, liền cong môi hỏi nhỏ: “Đã đem đến viện Ngọc Lan rồi chứ?”

 

Tiêu Thoa nhìn theo tầm mắt của Huyền Dao, sau đó mỉm cười lễ phép nói: “Mọi chuyện vẫn như thường lệ mà làm thôi ạ!”

 

Tại thời điểm hiện tại, bụng của Lệ Uyển đã to rõ thấy. Ngự y khuyên nàng phải chăm đi lại nhiều hơn, như vậy sẽ giúp ích khi lâm bồn. Vậy nên dù tiết trời lạnh lẽo, Lệ Uyển cũng cùng Bảo Tâm đi dạo loanh quanh. Lúc chủ tớ hai nàng về đến phòng thì đã thấy trên bàn có một đĩa trứng, sắc mặt tươi tắn theo đó mà đột ngột chùng xuống.

 

Bảo Tâm thấy chủ nhân ưu phiền, cuối cùng nhẹ giọng nói: “Trứng ấp hai mươi mốt ngày mới nở thành gà, trứng này chỉ ấp được mười lăm ngày, khi đó lòng trắng chỉ to bằng một quả vải, gọi là “gà lộn trái vải.” Hồ ngự y có nói, mấy quả trứng này rất có ích cho bà bầu, chủ nhân hãy mau ăn đi ạ!”

 

Lệ Uyển thở dài: “Sâu lộn thành bướm, tằm lộn thành ngài. Trứng này cũng vậy, vốn dĩ có thể lộn thành gà, nhưng mà lại bị người ta luộc mất giữa chừng. Ta thấy không nỡ...”

 

Bảo Tâm lặng lẽ cắn môi: “Không chỉ có viện của chúng ta, cứ tầm vào ngày giữa tháng, Hồ ngự y lại đem trứng lộn đến cung Nghênh Xuân. Nguyên phi điện hạ muốn tốt cho đứa con trong bụng, bản thân chẳng hề ngần ngại khi ăn loại trứng này. Vậy nên... vậy nên chủ nhân cũng phải như thế...”

 

Nói xong câu này, Bảo Tâm liền bước tới lấy một quả trứng bỏ vào chiếc chung nhỏ, sau đó đập vỡ nó rồi đưa đến chỗ của Lệ Uyển. Ngón tay Lệ Uyển run run khi đưa muỗng đâm vào trong, sắc mặt lộ rõ nét không nỡ, nhưng bởi vì đứa con trong bụng, bản thân chẳng còn có sự lựa chọn nào khác…

 

***

 

Tối đêm đó gió bấc thổi rất mạnh trong vườn ngự uyển, Lục Bình cố gắng giữ chặt xấp vàng mã trong tay, chỉ sợ nếu có tờ tiền nào rơi ra, chuyện mà chủ tớ nàng đang làm sẽ bị phát hiện.

 

“Nãy giờ người đã đốt rất nhiều tiền vàng cho Liễu Phu nhân rồi, chúng ta hãy mau trở về thôi thưa chủ nhân. Nếu chuyện này bị người khác phát giác thì không hay chút nào!”

 

“Hôm nay là thất tuần của Đan Thanh, người trong cung đã chăn ấm nệm êm từ lâu, có còn ai nhớ đến một vị Phu nhân có xuất thân thấp kém như nàng ta? Nếu như ta không ở đây đốt vàng mã cho Đan Thanh, vậy thì còn có ai làm chuyện này? Chỗ tiền ở đây vẫn chưa đủ, ta muốn kiếp sau của Đan Thanh phải sống trong vinh hoa phú quý. Tốt nhất là giống như Thánh Tư Phu nhân, lúc sinh ra đã ở ngay vạch đích!”

 

Như Lộ nói xong câu đó thì bất giác có một đợt cuồng phong ập tới, kéo một nhánh cây khô rơi trúng đống lửa trước mặt nàng, khiến cho nó ngay lập tức bị tắt. Trong lúc Lục Bình còn đang hốt hoảng tin vào chuyện quỷ thần, chỉ thấy Như Lộ tức giận ngước lên cao nghiến răng nói: “Ngay cả việc cuối cùng mà ta muốn làm cho Đan Thanh, ông cũng không toại nguyện cho ta sao? Người ta nói trời cao có mắt, nhưng ta thấy ông có mắt như mù. Nếu như ông có bản lĩnh thì hãy sai thiên lôi đánh chết ta đi, bằng không thì hãy san bằng cung Vạn Thọ!”

 

Lúc đó thì trời cao bỗng rực lên một tia chớp thật ảm đạm. Lục Bình từ lâu đã kinh hồn bạt vía, đến cả việc ngăn cản chủ nhân tiếp tục nói ra những lời cay nghiệt cũng quên mất. Xung quanh bấy giờ chỉ có tiếng gió bấc ai oán, vậy mà lại khiến cho cảnh sắc thêm phần tĩnh lặng. Bất giác từ bên trong cảnh sắc tối tăm, có nhiều tiếng chậc lưỡi khiến người khác phải giật mình: “Những lời này nói ở đây thì được, nếu để lọt đến tai Thái hậu, cô có biết mình sẽ chết không có mồ chôn không?”

 

Như Lộ hốt hoảng quay đầu nhìn lại, chỉ thấy người ở đó khí chất ngời ngời. Trong khung cảnh lãnh đạm, khuôn mặt của nàng hiện lên một cách thánh thoát, giống như một viên ngọc lẫn trong màn sương, quý phái, sang trọng. 

 

“Là Quý phi điện hạ sao?”

 

Thiên Tuyết lộ nét cười bí ẩn: “Vốn dĩ Mai Phu nhân là người may mắn được triệu tới cung của Thái hậu nhiều nhất. Sao bây giờ lại quay sang căm hận Thái hậu, lại còn muốn thiên lôi đánh xuống mái ngói của cung Vạn Thọ? Việc này là do cô nửa đêm làm chuyện quỷ thần trong vườn ngự uyển, cho nên bản thân đã bị trúng tà, hay vốn dĩ cô chính là một độc phụ ăn cháo đá bát?”

 

Như Lộ quỳ rập xuống trong vô thức. Thiên Tuyết là người được Thái hậu cất nhắc chia cho quyền quản lý hậu cung, xem bộ lúc này nàng ta chỉ có một con đường chết!

 

“Ta xem như là tối nay cô đã bị trúng tà! Mau trở về viện Hương Liên nghỉ ngơi đi, ngày sau đừng làm ra những chuyện ngu xuẩn này nữa!” – Thiên Tuyết nói xong câu đó thì rời đi, được khoảng năm sáu bước thì chợt nghe Cẩm Tú nhẹ giọng: “Mấy bức tranh này…”

 

Thiên Tuyết thở dài: “Từ đầu đã có ý đưa cho cô ta, giữ lại cũng không để làm gì, nên làm thế nào thì làm thế nấy đi!”

 

Cẩm Tú “dạ” một tiếng rồi lặng lẽ bước đến chỗ của Như Lộ đang quỳ rập, sau đó đưa cho nàng bốn cuộn giấy rồi nhẹ giọng nói: “Tất cả những bức tranh mà sinh thời Liễu Phu nhân đã vẽ đều bị đốt bỏ. Quý phi điện hạ biết tình cảm giữa hai người sâu đậm, cho nên đã tốn công tìm cách giữ lại vài bức ở đây. Nô tỳ giao lại cho người!”

 

***

 

Dưỡng bệnh ở điện Ánh Thiềm đã nhiều ngày, cuối cùng Nguyên Ninh cũng được Nhật Suỷ sai người chuyển đồ về viện Nhã Cúc. Dẫu lúc này trời vẫn còn lạnh, nhưng mà nàng vẫn quyết định đến cung Nghênh Xuân, tiện thể đem vài cái yếm mà chính tay đã thêu tặng cho Huyền Dao, muốn tỏ thành ý thay cho mấy ngày qua đã không đến thỉnh an nàng.

 

Nghe qua mấy lời khách sáo này, Huyền Dao chỉ mỉm cười đáp: “Nhìn thấy thần sắc của nàng tươi tỉnh như thế, bổn cung đã cảm thấy vui vẻ lắm rồi. Trong khoảng thời gian nàng dưỡng bệnh ở điện Ánh Thiềm, bởi vì thời tiết lạnh lẽo, cho nên bổn cung đa phần đã miễn lễ thỉnh an cho mọi người. Tất cả cũng chỉ gặp nhau vào ngày mười lăm vừa rồi, vậy nên nàng cũng không cần phải cảm thấy áy náy!”

 

Huyền Dao nói đến đó thì liếc nhìn hình thêu trên yếm, không nhịn nổi mà tấm tắc khen: “Tài nghệ thêu thùa của Thánh Tư quả thật là xuất chúng, còn đẹp hơn chỗ quần áo mà người ở viện thượng phục đem đến nữa. Đầu lân ở đây sống động như thật, đứa bé mặc vào chắc chắn sẽ rất thích! Nhưng mà hình như mấy cái yếm ở đây đều là của bé trai thì phải?”

 

Nguyên Ninh cười đáp: “Nguyên phi điện hạ sinh con đầu lòng cho Quan gia, chắc chắn sẽ là một vị hoàng tử, cho nên thiếp thân mới dùng mấy hoạ tiết này!”

 

Huyền Dao nở một nụ cười rạng rỡ, chỉ khiêm tốn đáp: “Đối với bổn cung mà nói, chỉ cần có thể sinh cho bệ hạ một đứa con, hoàng tử hay công chúa đều không quan trọng. Nói thật với nàng, trong suốt thời gian mang thai, bổn cung cứ cảm giác đứa bé trong bụng là một công chúa!”

 

Trông thấy Huyền Dao nói đến đây thì có phần vui vẻ hơn, Nguyên Ninh không khỏi có chút thắc mắc, nhưng mà bản thân cũng không tiện để lộ ra ngoài, tiếc là Huyền Dao đã nhìn ra được: “Có phải nàng đang thắc mắc tại sao bổn cung lại vì chuyện này mà vui đến như vậy không? Thật ra bổn cung nghe nói, con gái thường sẽ quấn quýt với cha hơn. Nếu quả thực đứa bé trong bụng là công chúa, vậy thì Quan gia sẽ ghé qua cung Nghênh Xuân nhiều hơn, như vậy thì thật là tốt!”

 

Nguyên Ninh nghe đến đây, nghĩ lại việc trước giờ Đàm Hoa chính là người độc chiếm ân sủng. Tuy Nhật Suỷ vẫn để Huyền Dao làm người đứng đầu chúng thiếp, nhưng chỉ ghé qua cung Nghênh Xuân những dịp đặc biệt. Một người hiền lương thục đức như thế mà không được phu quân sủng ái, quả thực khiến cho người khác phải cảm thán. Dạo gần đây Nguyên Ninh cũng dần chiếm được tình cảm của Quan gia, ngay cả khi xuất cung chàng cũng chỉ mang theo mỗi một mình nàng. Chỉ cần nghĩ đến chuyện này thôi, bất giác Nguyên Ninh cảm thấy có chút áy náy, chỉ đành gượng gạo đáp: “Nếu Nguyên phi điện hạ đã nói như vậy, lát nữa khi thiếp thân trở về viện của mình, bản thân sẽ thêu thêm vài cái yếm hoa dâng lên cho người!”

 

Huyền Dao nghe xong càng cảm thấy vui vẻ: “Như vậy thì còn gì bằng? Bổn cung thay đứa trẻ trong bụng thật lòng cảm ơn nàng! Nhắc đến mới nhớ, sắp tới đã là đại lễ sắc phong của nàng, bổn cung không có gì quý giá, chỉ có đôi bông tai bằng đá mắt mèo muốn tặng cho nàng. Mong là nàng sẽ không chê!”

 

Tiêu Thoa nghe đến đó liền lấy từ trong tủ khoá một chiếc hộp gỗ. Nguyên Ninh có ý từ chối, chỉ nghe Huyền Dao nói: “Người ngồi ở hàng Phi vị trong cung không nhiều, bổn cung mong rằng sau khi em trở thành Đức phi, tình cảm của chúng ta sẽ khắn khít hơn, giống như mối quan hệ giữa chị với Quý phi và Thục phi vậy! Sau này khi không có người khác ở bên, Đức phi em cũng không cần xưng hô câu nệ với chị, chỉ cần gọi chị xưng em là được!”

 

Nguyên Ninh có chút ấm áp: “Nếu như chị đã nói như vậy, em chỉ đành ngoan ngoãn nghe theo!”

 

Nàng nói đến đó thì đưa tay định mở hộp gỗ ra xem, nhưng mà bản thân đã bị Huyền Dao ngăn lại: “Đá mắt mèo có đặc điểm là phát ra tia sáng ở giữa, nhìn qua cũng giống như tròng đen trong mắt của loài mèo vậy. Ánh sáng ở đây chói quá, lát nữa sau khi trở về viện Nhã Cúc, em hãy tìm một góc tối để mở ra xem, vậy thì sẽ có thể dễ dàng nhận ra điểm này!”

 

Nguyên Ninh nghe đến đây thì thôi không mở hộp ra nữa, chỉ ngoan ngoãn “dạ” một tiếng vâng lời. Đúng lúc đó thì hạ nhân trong cung Nghênh Xuân đã bắt đầu dọn đồ ăn lên cho Huyền Dao. Nguyên Ninh không tiện ở lâu, chỉ đành ngỏ ý được lui xuống trước. Lúc nàng bước ra ngoài có liếc qua đồ ăn trên tay của một cung nữ, chỉ thấy ở đó là một tô canh cua đồng rau ngót, trong dạ không khỏi có chút kinh ngạc, nhưng chỉ đành lặng lẽ bước tiếp.

 

Về đến viện Nhã Cúc, Tố Liên liền muốn được xem đôi bông tai mắt mèo của Huyền Dao. Nguyên Ninh chậm rãi mở chiếc hộp gỗ ra xem, chỉ thấy hai viên ngọc đen tuyền ở đó quả giống như lời mà Huyền Dao vừa nói. Có điều đôi bông tai lại không được làm bằng vàng ròng, chỉ có màu trắng xanh lấp lánh. Xem bộ chính là vì muốn tôn lên độ quý hiếm của đá mắt mèo, cho nên thợ kim hoàn đã dùng bạc thay thế. 

 

Nguyên Ninh nhìn qua đôi bông tai mắt mèo, bất giác nhớ lại chiếc bao tay ngày trước, thứ vốn được lót bằng bộ lông của con mèo Bánh Bao. Vậy nên nàng liền đóng chiếc hộp đựng đôi bông tai lại, sau đó nhẹ giọng nói với Tố Liên: “Em hãy đem vào tủ cất đi!”

 

Cuối cùng thì lễ sắc phong cũng đã đến, hôm đó trời đổ tuyết trắng, vừa hay đây là thứ báo hiệu điềm lành. Bởi vì có đến ba người được tấn phong, cho nên đại lễ sắc phong đã diễn ra ở viện thượng nghi. Giống như những gì Nguyên Ninh đã biết từ trước, hôm nay lễ phục đưa đến viện của nàng là một bộ Khuyết địch màu đỏ, đi cùng với chiếc Phụng quán có ba rồng hai phượng. Nhớ lại lời của Thái hậu, Nguyên Ninh chẳng vì chuyện này mà sinh lòng oán trách. 

 

Nhưng dù Đàm Hoa đã cố tình hạ bệ nàng trước mặt nhiều người, Khuyết địch sặc sỡ cùng với Phụng quán diễm lệ ở đó cũng đủ để khiến cho Hạ Lệ Uyển cảm thấy ghen tỵ lẫn ngưỡng mộ. Nàng ta tự nhũ với lòng, phong hiệu Quỳnh Phương Phu nhân mà bản thân vừa mới được nhận chỉ là một cái bàn đạp. Sau này nhất định sẽ có ngày nàng ta giống như Nguyên Ninh, được ngồi lên hàng Phi mà trước giờ bản thân ao ước. Nghĩ đến đó, Lệ Uyển khẽ xoa xoa bụng, chỉ nghe Quỳnh Thái Phu nhân cất cao giọng, rành mạch đọc rõ những lời ở bên trong sách văn: “Kinh Dịch có quẻ Đồng Nhân, nói về việc trên dưới cùng lòng, đồng tâm hiệp lực. Chỉ cần như vậy, dù có khó khăn gì cũng có thể vượt qua. Xét thấy Phi vị trong cung vẫn còn chỗ trống, mà Thánh Tư Phu nhân Trần thị thì xuất thân vinh hiển, tư chất đoan trang, lại hiền lành đức độ, từng có công khai chi tán diệp. Nay phụng ý chỉ của Thái thượng hoàng và Thái hậu, tấn phong Thánh Tư Phu nhân thành Đức phi, từ nay cần phải kính theo khuôn phép, khắc ghi trong lòng, về sau chắc chắn sẽ vô cùng vinh hiển. Khâm thử!”

 

Quỳnh Thái Phu nhân đọc xong câu này thì liền đưa sách văn cho cô Quế Lan, sau đó lại tiếp tục truyền đọc sách văn của Lệ Uyển và Tuệ Doanh, cuối cùng mới nhận lại sách văn cùng với kim bảo để đích thân đưa cho Nguyên Ninh, điệu bộ có phần cao ngạo: “Nhập cung chưa tròn một năm mà đã ngồi lên Phi vị, Đức phi không hổ là nữ nhân của nhánh Yên Sinh, cháu gái của đương kim Thái hậu!”

 

Nguyên Ninh dập đầu bái tạ rồi tiếp nhận sách văn cùng với kim bảo, chỉ lễ phép nói: “Phu nhân chê cười rồi, thâm niên của ta ở trong cung không lâu, bản thân vẫn cần phải học hỏi nhiều điều ở Quý phi điện hạ!”

 

Mấy lời này nghe sơ cũng đủ biết là lời khiêm tốn, nhưng Quỳnh Thái Phu nhân thì không thấy là thế, chỉ ngạo mạn nói: “Chuyện này đương nhiên! Nhìn thấy Đức phi tự xưng là “ta,” gọi Quý phi bằng hai từ “điện hạ,” bổn Phu nhân đã đoán được trong tương lai sắp tới, cô sẽ cần học hỏi nhiều thứ ở chỗ Quý phi. Chuyện này e là không phải ngày một ngày hai, để Đức phi không phải bỡ ngỡ, bổn Phu nhân sẽ nói trước vài điều cho cô nghe. Hiện giờ cô đã là Đức phi, không còn phải dùng võng để di chuyển, đã có thể chính thức dùng liễn kiệu. Sau này chỗ ở của cô là cung Hội Xuân, tuy nói là cùng hàng ngang vế với chỗ ở của Quý phi, nhưng khoảng cách từ cung Hội Xuân tới cung Quan Triều khá là xa, sao có thể bì được với cung Lâm Xuân cơ chứ? Ngày sau Đức phi nếu không hiểu chuyện gì, chỉ cần mạnh dạn đến chỗ Quý phi hỏi qua là được!”

 

Nguyên Ninh nhìn thấy thái độ ngạo mạn của Quỳnh Thái Phu nhân, nhớ lại hành vi trong yến tiệc trung thu của bà ta ngày trước, bản thân thực sự rất muốn áp chế sự hống hách này. Nhưng vì nể mặt Thiên Tuyết, Nguyên Ninh đành nuốt vào một hơi kiên nhẫn, cứ như thế mà mỉm cười đáp: “Cảm ơn Phu nhân đã nhắc nhỡ!”

 

Quỳnh Thái Phu nhân nghe đến đây vẫn chưa hài lòng, bản thân vẫn còn muốn hạ bệ nàng thêm: “Thật ra việc Đức phi gọi Quý phi bằng hai tiếng “điện hạ” cũng chưa hẳn là sai. Theo lý mà nói, các bậc Thứ phi không chia cao thấp, nhưng trước giờ bổn Phu nhân chỉ nghe người ta nói Quý Thục Hiền Đức, không ai đảo trật tự thành Đức Hiền Thục Quý cả. Dựa theo chuyện này, Đức phi có lẽ đã hiểu vị trí của mình rồi nhỉ?”

 

Có câu con giun xéo lắm cũng quằn, Quỳnh Thái Phu nhân ép Nguyên Ninh vào trong đường cùng, buộc nàng phải dùng phân vị Đức phi để đàn áp khí thế của bà ta: “Chuyện này bổn cung có thể hiểu. Nhưng mà bổn cung càng hiểu rõ rằng, trên bậc Thứ phi còn có Nguyên phi điện hạ và Thái hậu điện hạ. Trong trường hợp bổn cung có điều thắc mắc, đương nhiên không thể suốt ngày làm phiền Quý phi được. Đôi lúc cũng cần phải tìm đến Nguyên phi điện hạ và cô ruột của mình để nhờ sự giúp đỡ, Phu nhân nói xem có phải không?”

 

Vẻ mặt ngạo mạn của Quỳnh Thái Phu nhân lúc này cũng giống như ngọn lửa bị dập tắt bởi một gáo nước lạnh, chỉ có thể bốc lên khí giận đằng đằng. Bà ta còn định nói thêm câu gì, bản thân đã bị cô Quế Lan nhẹ giọng nhắc nhỡ: “Hai vị Phu nhân ở đây vẫn đang chờ nhận được sách văn của người đấy ạ!”

 

Quỳnh Thái Phu nhân nghe qua thì cũng đành cắn nhẹ môi trong, sau đó quay người đưa sách văn cho Lệ Uyển và Tuệ Doanh một cách qua loa. Nguyên Ninh không thèm để ý đến bà ta, chỉ nâng niu kim bảo và sách văn trong tay. Kể từ thời điểm hiện tại, nàng đã danh chính ngôn thuận là Đức phi của Nhật Suỷ.

 

Ở bên ngoài viện thượng nghi, Yên Ngôn đã cùng Xuân Nhi và Mộc Miên đến đó chờ sẵn. Tuyết trơn khó đi, cho nên Yên Ngôn đã nhờ người khiêng võng đến đây. Khu vườn ở bên cạnh viện thượng nghi chìm trong tuyết trắng, nhân lúc chờ đợi, Yên Ngôn đã cùng Mộc Miên và Xuân Nhi đến đây ngắm nhìn. Chỉ thấy những búp nõn chồi non ở đó ẩn mình trong sương tuyết, giống như những đứa trẻ cuộn tròn trong chăn, chỉ đợi xuân đến sẽ khoác lên trên mình bộ quần áo sặc sỡ. 

 

Ba người bọn họ ngắm tuyết hồi lâu, cuối cùng cũng đã chờ đến lúc Nguyên Ninh bước ra. Yên Ngôn quay người bước về chỗ mà hai tên công công khiêng võng đang đợi, không cẩn thận trượt chân đạp phải đống tuyết bên đường, giày và vớ của nàng theo đó bị ướt.

 

Mộc Miên có chút lo lắng, chỉ thấy Yên Ngôn phất tay, ý bảo chuyện này không hề đáng ngại. Nàng liếc mắt nhìn lên, chỉ thấy Nguyên Ninh đã ngồi yên vị trên kiệu cao từ lâu. Ở đó có tất cả bốn công công khiêng kiệu, nhanh chóng đưa Nguyên Ninh di giá đến cung Hội Xuân.

 

Yên Ngôn tranh thủ ngồi xuống võng, lệnh cho hai tên công công bám theo liễn kiệu. Nhưng lúc này tuyết đã phủ đầy đường, võng của nàng chỉ được khiêng bởi hai công công, khó có thể đuổi kịp liễn kiệu của Nguyên Ninh được.

 

Khoảng cách của hai người càng lúc càng xa. Cuối cùng thì hình bóng của Nguyên Ninh đã chìm trong màu tuyết trắng xoá, Yên Ngôn có cố gắng nhìn cũng không thể tìm được tấm lưng của nàng. Sự buốt lạnh từ chân dần lan toả đến những phần khác của cơ thể, Yên Ngôn chỉ nghe Xuân Nhi chậc lưỡi: “Đức phi cũng thật là vô tâm! Chủ nhân đã tốn công chịu lạnh đến tận đây, vậy mà Đức phi lại cho kiệu rời đi một mạch, đến cả một cái liếc nhìn về phía chúng ta cũng không có!”

 

Mộc Miên nghe đến đó thì lặng lẽ mím môi, nhẹ giọng phân trần: “Xem bộ là do Đức phi điện hạ không nhìn thấy chủ nhân, cho nên mới rời đi nhanh đến như vậy thôi ạ!”

 

Yên Ngôn chậm rãi gật đầu: “Cũng phải! Kiệu cao như vậy, không thể quan sát những người bên dưới cũng là lẽ thường tình…”

 

Mộc Miên suy tư đôi lát, cuối cùng khẽ hỏi: “Chúng ta sẽ đến cung Hội Xuân chứ ạ?”

 

Yên Ngôn lắc đầu: “Giày và vớ của ta đã bị ướt cả rồi, chúng ta về viện của mình thì hơn!”


Chương trước << Danh sách chương >> Chương sau

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Danh sách chương